Sách

Đời sống - Gia đình Bí quyết dành cho phụ nữ Cẩm nang nuôi dạy trẻ Hạnh phúc gia đình Làm đẹp Làm vườn - Vật nuôi - Nông lâm nghiệp Mang thai & Nuôi con mới sinh Nữ công gia chánh - Thực dưỡng Tâm lý - Giới tính Thể dục - Thể thao Giáo khoa - Giáo trình - Sách tham khảo Giáo trình Cao đẳng - Đại học Luyện thi Cao đẳng - Đại học SÁCH GIÁO KHOA BỘ Sách giáo khoa cấp I Sách giáo khoa cấp II Sách giáo khoa cấp III Tham khảo cấp I Tham khảo cấp II Tham khảo cấp III Ngoại ngữ - Từ điển Tiếng Anh Tiếng Hàn Tiếng Nhật Tiếng Pháp Tiếng Trung Tiếng Việt - Ngoại ngữ khác Từ điển Ngoại văn Children books Cooking - Science - Social - Economic Literature & Fiction Sách Chuyên ngành Khoa học kỹ thuật - Công nghệ Khoa học thường thức Khoa học tự nhiên Khoa học xã hội Ngoại giao - Vấn đề quốc tế Pháp luật - Văn bản hướng dẫn thi hành Luật Phong thủy - Kinh dịch - Nhân tướng học Tin học - CNTT Tôn giáo - Tín ngưỡng - Tâm Linh Triết - Chính trị - Quân sự - Nhà nước Xây dựng - Kiến trúc Y học - Sức khỏe Sách dành cho Thiếu nhi Kiến thức - Kỹ năng dành cho bé Sách tô màu thiếu nhi Truyện kể cho bé - Đồng thoại Truyện tranh Sách dành cho Thiếu niên - Tuổi mới lớn Kiến thức - Kỹ năng dành cho thiếu niên Manga - Comics Tủ sách teen Sách Kinh tế Đầu tư - Chứng khoán Kế toán - Kiểm toán Khởi nghiệp - Làm giàu Kinh tế học Nghệ thuật lãnh đạo - Nhân sự PR - Marketing - Sales - Brand Quản trị kinh doanh Tài chính - Ngân hàng Sách Rèn luyện bản thân Bài học thành công Bí quyết - Kĩ năng - Cẩm nang - Hướng nghiệp Nghệ thuật sống - Truyền cảm hứng Sách song ngữ Sách tô màu người lớn Văn hóa - Nghệ thuật - Du lịch Âm nhạc Danh nhân - Tác giả - Hồi ký - Tiểu sử - Tự truyện Lịch sử - Địa lý Mỹ thuật - Điện ảnh - Sân khấu - Nhiếp ảnh Phóng sự - Ký sự - Bút ký - Tùy bút - Truyện ký - Tạp bút - Ghi chép Văn hóa - Du lịch Văn học Tác phẩm kinh điển Thơ - Bình thơ - Nghiên cứu - Tiểu luận - Phê bình văn học Toàn tập - Tuyển tập - Hợp tuyển thơ văn - Biên khảo Truyện Chương hồi - Kiếm hiệp Truyện cười - Truyện tiếu lâm - Truyện dân gian - Truyện trào phúng Truyện dài - Tiểu thuyết Truyện ngôn tình - Light Novel Truyện Thần thoại - Dã sử - Truyền kỳ - Huyền bí - Giả tưởng Truyện trinh thám - kinh dị - điều tra - vụ án Truyện vừa - Truyện ngắn - Tản văn

 

THƯ VIỆN ẢNH

> <

ẢNH MINH KHAI

> <

BẢN TIN MINH KHAI

WEBSITE LIÊN KẾT







 

TÌM KIẾM

Sách > Truyện vừa - Truyện ngắn - Tản văn

(BC) Sài Gòn Tạp Pín Lù - Vương Hồng Sển (Hết hàng)
Tác giả: Vương Hồng Sển

Thể loại: Truyện vừa - Truyện ngắn - Tản văn
ISBN: 9786045804797
Xuất bản: 3/2013
Trọng lượng: 600 gr
NXB: Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh
Số trang: 398 trang - khổ: 14.5x20.5 cm
Giá bìa: 140,000 đ (-10%)
Giá bán: 126,000 đ

Nếu dịch đúng ra Hán Việt, là “Sài Gòn đã biên lô” vẫn chưa ai hiểu là gì? Tả, tạp là “đả”, đánh; Pín - có hai nghĩa: “pín” là đuôi sam thằng Chệc đời Mãn Thanh, nhưng đây pín có nghĩa là “biên” (Hán tự) và “bên, gần bên” (Nôm). Lù là lò, lò lửa.


Tạp pín lù, là “đả biên lô”, tức là món ăn nấu chín gần bên lò lửa; cũng như “ăn sán lẩu” là ăn thịt sống nhúng vào nước sôi bắt trên lò lửa nóng. Số là người Tây bày ra một từ khí làm bằng chì, thiếc, vật kim khí có chân cao giữa khoét lỗ đặt vài cục than cháy, chung quanh là nồi chứa nước thịt ngọt, khách ăn tự lựa từng món ngon: mề gà, lòng heo, ruột già, ruột non, dồi trường, tự gắp bằng đũa và nhúng vào nước thịt đang sôi, rồi tự gắp qua chén và không cần biết món nhúng đã chín hay còn sống sượng. Rồi thì rượu cay, rau sống ngốn nghiến chàm ngoàm cả miệng không thốt ra lời được, món ăn ấy gọi “ăn sán lẩu”, dịch ra Hán tự là sán - sanh (thức ăn còn sống, chưa chín), “lẩu”: lò (lô), ăn Sanh lô, nhưng nếu nói: “sanh lô” ba Tàu không hiểu, phải nói theo họ “ăn sán lẩu”, hoặc ăn “cù lao” vân vân.


Tiếng miền Nam rắc rối pha chè, người ngoài vô đây, xin khuyên đừng ham “nói chữ”.


Sài Gòn tạp pín lù, nôm na là Sài Gòn thập cẩm, Sài Gòn tào lao, Sài Gòn ba lăng nhăng, ai muốn hiểu sao thì hiểu. Sài Gòn sán lẩu cũng được, nhưng tạm dùng danh từ tạp pín lù. Nếu nói theo Bắc thì “Sài Gòn thập cẩm; nếu nói theo Trung thì “Sài Gòn tào lao”, nhưng tác giả sanh tại Sóc Trăng (Nam Kỳ) nên: tập nầy danh gọi Sài Gòn tạp pín lù là vì vậy.


Thay lời tựa


Thư một người chửa quen biết, gởi cho tác giá “Sài Gòn năm xưa” Thưa ông,


Tôi là V.A. hiện ở Paris chưa tiện nói danh tánh và địa chỉ, thơ từ xin dùng lối poste réstante, hộp thơ số...


Đời nầy không nên thấy sang vội bắt quàng làm họ. Về sang, đúng ra ông chưa có, duy có nhà còn y như cũ, đồ ngoạn hào không hảo hớt, văn viết còn có người đọc. Quyển “Sài Gòn năm xưa” còn người tìm mua vởi giá cao, quả ít ai được như vậy, tạm gọi rằng sang. Tôi nay, quê quán Mỹ Tho (Rạch Gầm), chồng chẳng may sớm thất lộc, cùng quê vởi quê vởi ông ở Sốc Trăng, bắt quàng được chứ?


Giũ lời tiên phu ký thác, nay tôi nhờ người thân tín nầy cầm bức thơ và luôn tập nhật ký cuộc đời cửa hai tôi, nhờ ông điểm xuyết, tôi đàn bà viết còn vụng về, sau nầy có dịp tiện tưởng ông nên cho vào “Sài Gòn năm xưa” gọi bổ túc. Ông viết “Sài Gòn năm xưa”, xuất bản đã hai lần, sách biên khảo được vậy là khá, nhưng tại sao ông bỏ sót không viết đầy đủ về nhóm chị em chúng tôi. Trong sách ông kể đủ, nào Trần Bá Lộc bợ Tây, bạo tàn, nào Đỗ Hữu Phước bán đứng liệt sĩ Thủ Khoa Huân, làm giàu trên xương máu đồng bào, nào Sáu Ngọ vua cờ bạc... nhưng vì sao ông chừa giới ăn chơi, đám công tứ bột, và nhóm giang hồ lưu lạc, mượn yên hoa son phấn hành nghề? Vâng, nhóm son phấn ẩy, cứ gọi đúng tên, có chi rằng nhục, có tên để gọi. có chữ để đọc, kêu xách mé hại gì? Hay vì yêu hoa nhắc đến truỵ lạc, ông sợ nên né tránh?


Miệng tụng kinh Di Đà, lòng chứa sẵn một bồ dao găm. Ấy là quân giấu hình, giấu dạng. Ban ngày ăn tương chao niệm Phật, trời sắp tối, tay cầm chuỗi, tay gõ mõ, mắt láo liếng xanh khách. Khách xuống xe đi lỏn nhà , nhè nhà kế bên cũng thờ thần mày trắng bước vô, kinh đọc chữ cà lăm, chữ vấp váp, thà làm nghề nằm ngửa như bọn tôi mà ít tội hơn. Thế gian truỵ lạc còn nhiều làm sao kể xiết? Xã hội ngày nay đã dường thế, ông có giấu cũng không xong. Phàm xấu che tốt khoe là thường lệ, thơm gì đời con đĩ mà thuật ra đây. Nhưng xin chớ quên chút công của chị em chúng tôi mới phải. Những năm 1920 đến 1945, ruộng Hậu Giang nhờ kinh xáng khai thông mà phát, mùa trúng liên tiếp, lúa lại được giá, con cháu các địa điền chủ lớn đua nhau giỡn với tiền rừng, bạc biển. Có thằng, cha chết chưa kịp chôn, đã ăn cáp bằng khoán, ôm đi cố cho chà setty (chetty) lấy bạc cho kịp mua xe chở em đi ăn nem hứng gió. Các chủ ruộng có con trai đều háo hức cho sang Pháp, thi đậu bằng trung cấp thứ thiệt làm nghề thầy cãi, thày thuốc, thầy nhổ răng, nay thảy đều già cóp. Đám khác không biết học chữ, thì lại học khiêu vũ, nhiếp ảnh, cắt may về xứ mở phòng chụp hình (Antoine Giàu”, lập nhà may Âu phục (Nguyễn Phong Tân), đồng bào hại đồng bào, thời Nam kỳ quốc, bắt nói cho sửa “Tân Sơn Nhứt’ hễ nói “nhất’ thì a-lê hấp cho chầu Diêm Vương, tưởng hưởng lộc Tây lâu dài, té ra vẫn đền mạng bên Pháp vì tội bán nước, chạy trời không khỏi nắng. Có nhóm ít tiền, cho con ra học trường cao đẳng ở Hà nội để làm đốc phủ, đốc sự, mộng Huỳnh lương chưa tỉnh, sự nghiệp đã đi đời, kẻ đau tim chết sớm, kẻ chờ con lãnh sang nước ngoài chở thời, các con chủ điền muốn xứng danh “công tử bột, phá gia chi tử”, nếu không có chị em chúng tôi tiếp tay, xô đẩy làm cho cái xã hội ăn chơi đàn đúm trào Pháp mau sụp đổ. Có thế ấy thì cái xã hội này mới có chỗ mọc lên. Ông không viết trong “Sài Gòn năm xưa” nên chị em chúng tôi phải nhắc. Đừng gọi là phá gia chi tử, họ không hư hơn ai kia đâu. Họ có quyền tung vãi đồng tiền của ông cha họ làm giàu bằng mồ hồi nước măt tá điền, nay bọn con tá điền trở về báo thù, ấy là quả báoo nhãn tiền, chớ đâu phải thiên đao bất công. Nếu không có chị em chúng tôi hốt vãi quăng bừa thì đồng tiền thất đức của chủ điền chủ ruộng vẫn khoá chặt trong tủ sắt hiện Bauche, hiệu Fichet, làm sao lọt tới tay bác lái xe, chú thổi bếp. Gánh nước làm chi cho đau vai, ở trong làng lấy một chồng làm chi để sanh con lũ khủ cực thân, sức đàn bà có bao lăm và chỉ có làm nghề không vốn nầy, ủa quên, vốn là nhan sắc trời dành, hoạ may mới cất đầu lên được, không chi cũng ăn mặc sung sương trong một thời gian. Không bán dạng thuyền quyên. không xuống đường làm đĩ để chết rục trong xó hè à? Làm đĩ có ba bốn đường vả lại có chồng mà còn ăn vụng lại thúi hơn là làm đĩ công khai. Chúng tôi sanh sống trong những năm 1920-1945, thò bốc trong túi công tử bột, ăn to xài lớn, tung vãi: đục, khoét, gặm, nhấm, làm đủ mọi cách, xã hội như nay mới có. Tưởng không nên cười con đĩ và nên chấm công cho gái giang hồ. Bao nhiêu nước mắt của chị em chúng tôi, nếu có phép nào gom lại được thì sẽ biến thành “khổ hải” bao la. Bao nhiêu nỗi oan khúc bất công của xã hội đối với chị em chúng tôi, nếu có phép quy tụ lại thì ắt hoá ra lửa, lửa nầy đủ để đốt bầu trời nầy tan ra mây khói, và khói nầy sẽ là thiên hồn địa ám, mù mịt còn dày hơn bên Anh quốc những tháng sa mù, đèn Diogène đâu dễ rọi thấy đường


Chúng tui nào muốn phơi hày sự tích không thơm tho cho công chúng biết. Riêng tôi nay đã yên thân chốn nầy, không khác kẻ dưới sông đã lội được lên bờ, bụi trần gội sạch, há vạch lưng cho khách qua đường như ông đếm thẹo hay sao. Có chị nào lớp nhỏ, lên chưn quá, ông nên đốt bớt cho vừa. Vừa tập tành, chân chưa sạch phèn, đã tưởng mình khôn hơn thiên hạ!


Cái kiếp má hồng, sớm tươi bao nhiêu, chiều càng lợt bấy nhiêu, chị em bạn gái chở ỷ tài và chớ quên điều ấy.


Lòng chai dạ đá là lòng con đĩ ít học rnhư tôi, ăn cháo đá bát là bụng con đĩ giận đời bỏ rơi thành ra bất mãn (như tôi). Lúc còn son sắt, những ham bay nhảy đua đòi, khác nào chim non vừa lìa ổ mẹ đang tập bay, và khi lông cánh đầy đủ, máu tham hơi đồng càng hăng, nào còn hiêt trởi kia có mắt. Đến khi chung cuộc ai từng đọc truyện Tây Du ắt nhớ lúc lão Tôn Ngộ Không thi tài cùng hư Lai. Tôn dùng cân đẩu vân nhảy một nhảy tưởng đụng nóc trời. Khi gíác ngộ, xem lại: mình vẫn đứng lé đé dưới chân Phật tổ và vũng nước dơ để làm dấu, nay lớn không hơn bọt miếng con thằn lằn. Chuông chùa cảnh tỉnh đêm khuya, Nam Mô A Di Đà Phật, thanh dơ văn chung càng tỏ. Viết được thì nên viết để răn hờ đám chị em, nhưng xin khuyên ông nơi nới tay, vì “gở cho hết nợ, còn gì là duyên”.


Còn sống đây, tôi còn đi đây đi đó, không muốn có người chỉ trỏ, chúng tôi chết rồi, mặc tình ông muốn hỏi tên tôi.


Chúc ông giai lão và mong sớm đọc những gì ông viết.


Ký tên: Quả phụ V.A.





Copyright @1999-2020 MINHKHAI.VN All rights Reserved.
Công Ty TNHH Minh Khai S.G (Nhà sách Minh Khai)
249 Nguyễn Thị Minh Khai, F. Nguyễn Cư Trinh, Q.1, Tp. Hồ Chí Minh
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số: 4102019159
Mã số doanh nghiệp 0303209716 - Đăng ký thay đổi lần 6 ngày 30/07/2010
Ðiện Thoại (028)39250590 - (028)39250591 -Fax: (028)39257837
Website: minhkhai.com.vn
E-mail: [email protected]